Pila polita là gì? Các công bố khoa học về Pila polita

Pila polita, hay còn gọi là ốc táo, là loài ốc sên thủy sinh thuộc họ Ampullariidae, phổ biến trong các bể cá cảnh tại Đông Nam Á. Với đặc điểm vỏ tròn, màu từ xanh đến nâu và khả năng tái tạo, chúng đẻ trứng trên cạn, dễ nhận biết qua trứng màu hồng hoặc cam. Sống ở môi trường nước ngọt, ốc táo giúp duy trì vệ sinh nhờ ăn tảo và mảnh vụn. Với vai trò cải thiện chất lượng nước và làm sạch hệ sinh thái, Pila polita đóng góp lớn trong cả môi trường tự nhiên và bể cá.

Giới thiệu về Pila Polita

Pila polita là một loài ốc sên thủy sinh thuộc họ Ampullariidae. Được biết đến với tên gọi phổ biến là ốc táo, loài này phổ biến trong các bể cá cảnh nhờ khả năng làm sạch tảo và chất hữu cơ hiệu quả. Pila polita được tìm thấy chủ yếu ở Đông Nam Á, đặc biệt trong các đầm lầy, sông hồ và các vùng nước ngọt khác.

Đặc điểm hình thái

Pila polita có vỏ tròn, mịn màng với màu sắc từ xanh nhạt đến nâu sậm. Kích thước vỏ có thể đạt đến 5-10 cm. Vỏ của chúng khá chắc và có khả năng tái tạo nếu bị tổn thương. Bên trong vỏ, cơ thể ốc sên mềm và có màu trắng sữa.

Tập tính sinh sản

Ốc táo là loài đẻ trứng, vòng đời của chúng bao gồm trứng, ấu trùng và trưởng thành. Chúng thường đẻ trứng trên cạn, trên các bề mặt lá cây hay tảng đá gần bờ nước. Trứng của Pila polita là một trong những đặc điểm nhận dạng dễ thấy, với các đám trứng màu hồng tươi hoặc cam.

Môi trường sống và tập tính ăn uống

Pila polita sống trong môi trường nước ngọt với lượng oxy hòa tan cao. Chúng có khả năng thở không khí thông qua một ống siphon, cho phép chúng tồn tại trong các vùng nước có mức oxy thấp. Về chế độ ăn, ốc táo là loài ăn tạp, chúng ăn tảo, thực vật chết và chất hữu cơ đáy bể. Điều này giúp duy trì sự sạch sẽ của bể cá và hệ sinh thái nước nội địa.

Tầm quan trọng sinh thái và kinh tế

Trong tự nhiên, Pila polita đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát môi trường thủy sinh bằng cách tiêu thụ lượng lớn tảo và mảnh vụn. Điều này giúp ngăn chặn hiện tượng phạm vi phát triển không kiểm soát của tảo và các vấn đề liên quan đến chất lượng nước.

Trong lĩnh vực nuôi cá cảnh, ốc táo được xem như một giải pháp tự nhiên hiệu quả trong việc làm sạch bể cá. Chúng không chỉ làm đẹp môi trường bể mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe bể cá thông qua việc giảm thiểu tích tụ chất bẩn hữu cơ.

Kết luận

Pila polita - ốc táo là một loài ốc có sức hấp dẫn không chỉ vì vẻ đẹp của chúng, mà còn vì tầm quan trọng sinh thái rõ rệt. Khả năng làm sạch và duy trì cân bằng sinh thái trong môi trường sống của chúng đã khiến Pila polita trở thành một phần không thể thiếu trong nhiều hệ sinh thái nước ngọt cũng như trong các bể cá cảnh trên toàn thế giới.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "pila polita":

Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ ốc bươu vàng (Pomacea canaliculata) đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc bươu đồng (Pila polita)
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 42 - Trang 56-64 - 2016
Nghiên cứu này được thực hiện trong 60 ngày nhằm đánh giá ảnh hưởng của mật độ ốc bươu vàng (BV) đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc bươu đồng (BĐ). Thí nghiệm được bố trí với 5 nghiệm thức là 1).100% BĐ, 2).75% BĐ:25% BV, 3).50% BĐ:50% BV, 4).25% BĐ:75% BV và 5).100% BV (về số lượng) với 3 lần lặp lại. Trọng lượng ban đầu của ốc khoảng 0,70 – 1,00 g/con, được nuôi chung trong bể với mật độ là 200 con/m2. Ốc được cho ăn rau diếp và thức ăn công nghiệp với tỷ lệ 1:1(tỷ lệ khô), lượng thức ăn hàng ngày tương đương 4% sinh khối ốc nuôi. Kết quả cho thấy tốc độ tăng trưởng của BĐ thấp hơn BV ở tất cả các nghiệm thức (p
#Ốc bươu đồng #Pila polita #Ốc bươu vàng #Pomacea canaliculata #sinh trưởng #tỷ lệ sống
ẢNH HƯỞNG CỦA RAU XANH VÀ THỨC ĂN CÔNG NGHIỆP ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA ỐC BƯƠU ĐỒNG GIỐNG (PILA POLITA) GIAI ĐOẠN GIỐNG
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - - 2013
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc bươu đồng (Pila polita) trong quá trình ương giống. Thí nghiệm gồm có 3 nghiệm thức thức ăn và được lặp lại 3 lần là: 1). Rau xanh; 2). Kết hợp thức ăn công nghiệp (TACN) với rau xanh; 3).  Chỉ cho ăn TACN. ốc giống mới nở (khối lượng và chiều cao ban đầu là 0,03 g và 4,14 mm) được ương trong bể nhựa với mật độ 150 con/bể. Sau 35 ngày ương, tỷ lệ sống khi cho ăn TACN (93,1%) cao hơn so với cho ăn kết hợp (91,0%) và rau xanh (89,8%), tuy nhiên không khác biệt (p>0,05). Khi cho ăn TACN, khối lượng và chiều cao trung bình của ốc (0,83 g và 15,69 mm) cao hơn (p
#Ốc bươu đồng #Pila polita #thức ăn #sinh trưởng #tỷ lệ sống
Ảnh hưởng của các hàm lượng đạm khác nhau trong ương ốc bươu đồng (Pila polita) giống
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Tập 54 Số 3 - Trang 177-185 - 2018
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của các hàm lượng đạm khác nhau trong thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc bươu đồng (Pila polita) giai đoạn ương giống. Mỗi nghiệm thức có 3 lần lặp lại với các mức hàm lượng đạm lần lượt là: 15 (P15); 20 (P20); 25 (P25); 30 (P30); 35 (P35) và 40% (P40). Ốc giống mới nở có chiều cao và khối lượng ban đầu là 4,88 mm và 0,03 g được ương trong bể composite (kích thước 80×60 cm, chiều cao cột nước 20 cm) với mật độ 150 con/bể. Sau 49 ngày ương, khối lượng và chiều cao trung bình của ốc ương ở hàm lượng đạm P25 (1,17 g và 17,3 mm) cao hơn (p0,05). Ương ốc ở hàm lượng đạm P25 cho năng suất (349 g/m2) cao nhất và khác biệt (p
#Hàm lượng đạm #ốc bươu đồng #sinh trưởng #tỷ lệ sống
Sử dụng kết hợp thức ăn xanh và thức ăn công nghiệp để nuôi ốc bươu đồng (Pila polita) trong giai lưới
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 50 - Trang 109-118 - 2017
Nghiên cứu được thực hiện trong 4 tháng nhằm đánh giá ảnh hưởng của việc thay thế thức ăn xanh với tỷ lệ khác nhau lên tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống, năng suất và hiệu quả kinh tế của ốc bươu đồng (Pila polita) trong giai đoạn nuôi thịt. Thí nghiệm gồm có 5 nghiệm thức thức ăn và được lặp lại 3 lần là: (i) Thức ăn công nghiệp-100% (CN100); (ii) Thức ăn công nghiệp 75% kết hợp thức ăn xanh 25% (X25); (iii) Thức ăn công nghiệp 50% kết hợp thức ăn xanh 50% (X50); (iv) Thức ăn công nghiệp 25% kết hợp thức ăn xanh 75% (X75) và (v) Thức ăn xanh 100% (X100). Khối lượng, chiều cao và chiều rộng ban đầu của ốc giống là (1,32 g; 19,71 mm và 13,81 mm), ốc được nuôi trong giai với mật độ 150 con/m2. Sau 4 tháng nuôi, tỷ lệ sống của nghiệm thức X100 (71,9%) cao hơn so với X75 (71,1%), X50 (69,9%) và khác biệt (p
#Ốc bươu đồng #sinh trưởng #tỷ lệ sống #thức ăn xanh #thức ăn công nghiệp
Ảnh hưởng của giá thể đến kết quả nuôi ốc bươu đồng (Pila polita)
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 41 - Trang 86-93 - 2015
Nghiên cứu này được thực hiện trong 2 tháng nhằm đánh giá ảnh hưởng của các loại giá thể đến tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống và năng suất của ốc bươu đồng (Pila polita) trong giai đoạn nuôi thịt. Thí nghiệm được bố trí với 3 loại giá thể khác nhau là: 1). Không có giá thể (ĐC); 2). Chùm nilon (NL) và 3). Cây lục bình (LB) với 3 lần lặp lại cho mỗi loại giá thể. Số lượng ốc được thả vào mỗi bể (250 L) là 100 con với khối lượng trung bình ban đầu từ 0,73 đến 0,75 g/con. Sau 60 ngày nuôi, tỷ lệ sống của ốc bươu đồng không khác biệt giữa các nghiệm thức (p>0,05). Tuy nhiên giá trị trung bình về chiều cao (32,24 ± 3,90 mm), chiều rộng (23,78 ± 2,16 mm) và khối lượng (7,53 ± 0,23 g) của ốc nuôi với giá thể lục bình đều cao hơn các nghiệm thức khác (p
#Ốc bươu đồng #Pila polita #nuôi thương phẩm #giá thể
ĐẶC ĐIỂM VỊ TRÍ ĐẺ TRỨNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA THỜI GIAN PHUN NƯỚC ĐẾN QUÁ TRÌNH NỞ TRỨNG ỐC BƯƠU ĐỒNG (PILA POLITA)
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 35 - Trang 91-96 - 2014
Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu sự phân bố của bọc trứng ốc bươu đồng (Pila polita) trong ao và ảnh hưởng của các thời gian phun nước lên tỷ lệ nở và thời gian nở. Có 4 chu kỳ phun nước khác nhau được áp dụng trong quá trình ấp trứng ốc bươu đồng là 1). 3 giờ; 2). 6 giờ; 3). 9 giờ; 4). 12 giờ. Bọc trứng ốc được đặt trên giá thể xơ dừa trong rổ nhựa, sau đó ấp trong 12 bể composite. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ trứng ốc bươu đồng được đẻ sát bờ ao luôn ở mức cao (86,9%) so với những bọc trứng đẻ ở trên thân cây mọc quanh ao (13,1%). Tỷ lệ nở của trứng được phun nước sau mỗi 6h là (90,8%) cao hơn và khác biệt có ý nghĩa (p
#Ốc bươu đồng #Pila polita #phun nước #tỷ lệ nở #thời gian nở
BIẾN ĐỘNG THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA THỊT ỐC BƯƠU ĐỒNG (Pila polita Deshayes, 1830): VARIATION OF PROXIMATE COMPOSITIONS IN TISSUES OF BLACK APPLE SNAIL (Pila polita Deshayes, 1830)
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 4 Số 1 - Trang 1755-1765 - 2020
Ốc bươu đồng (Pila polita) là loài có giá trị kinh tế cao và phân bố ở Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt ở vùng nội đồng. Nghiên cứu thành phần hoá học của thịt ốc bươu đồng được thực hiện trên 721 mẫu (ốc cái: 332 mẫu; ốc đực: 389 mẫu)  thu từ tháng 11 năm 2016 đến tháng 10 năm 2017, ở một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả cho thấy, hàm lượng protein là thành phần chủ yếu trong thịt ốc bươu đồng (58,2 67,7%); trong đó, hàm lượng protein của ốc bươu đồng cái (52,8-67,3%) thấp hơn so với ốc bươu đồng đực (59,3- 69,5%). Hàm lượng chất béo trong thịt ốc bươu đồng có khuynh hướng tỉ lệ nghịch với hàm lượng chất protein, có xu hướng giảm thấp từ tháng 01 đến tháng 8 và cao từ tháng 9 đến tháng 12. Hàm lượng xơ và tro của ốc bươu đồng lần lượt 0,32-0,46% và 9,56-11,4%. Hàm lượng protein và chất béo trong thịt ốc vào mùa khô lần lượt là 61,4% và 2,52% thấp hơn (p<0,05) so với mùa mưa 65,2% và 3,00%. Trong khi đó, vào mùa mưa hàm lượng xơ và tro của ốc bươu đồng lần lượt là 0,42% và 11,9% cao hơn (p>0,05) so với mùa mưa 0,41% và 10,6%. Ốc bươu đồng ở nhóm kích thước lớn, hàm lượng protein cao hơn ở nhóm kích thước nhỏ. Từ khóa: Dinh dưỡng, Ốc bươu đồng, Pila polita, Thành phần hoá học ABSTRACT The black apple snail (Pila polita) is one of the species in Ampullariidae family with high commercial value, which is distributed in Mekong Delta, especially in the interior. A total number of 721 snails (332 females and 389 males) were collected from November 2016 to October 2017 in some provinces of Mekong River Delta, Vietnam for proximate composition analysis. The results showed that the protein content is the main component in black apple snail meat (58,2-67,7%), in which the female snail has lower protein content (52,8-67,3%) than  the male snail (59,3-69,5%). The fat content in black apple snail meat tends to be inversely proportional to the protein content, which was low from January to August and high from September to December. The fiber and ash content of the black apple snail was 0,32-0,46% and 9,56-11,4%, respectively. Seasonally, the protein and fat content of snail meat in the dry season are 61,4% and 2,52%, respectively, always lower (p<0,05) than in the rainy season (65,2% and 3,0%). Meanwhile, the fiber content and the ash content of snail in the rainy season were 0,42% and 11,9% higher (p>0,05) than the ones in the rainy season (0,41% and 10,6%). The research results also indicated that the black apple snail in the large size class had higher protein content than the one in the small size class. Keywords: Biochemical analysis, Black apple snail, Nutrition, Pila polita  
#Biochemical analysis #Black apple snail #Nutrition #Pila polita #Dinh dưỡng #Ốc bươu đồng #Thành phần hoá học
Ảnh hưởng của các chế độ ánh sáng đến tỷ lệ nở và sinh trưởng của ốc bươu đồng (Pila polita)
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 38 - Trang 73-79 - 2015
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của ánh sáng đến tỷ lệ nở và sinh trưởng của ốc bươu đồng. Thí nghiệm 1 đánh giá ảnh hưởng của ánh sáng đến tỷ lệ nở của trứng ốc được tiến hành với 3 nghiệm thức và mỗi nghiệm thức có 8 lần lặp lại là: 1) Ánh sáng tự nhiên (NL); 2)Che 1 lớp lưới lan (OL) và 3). Che 2 lớp lưới lan (TL). Trong thí nghiệm 2, ốc bươu đồng mới nở được ương ở các chế độ ánh sáng tương tự thí nghiệm 1. Ốc giống có khối lượng và chiều cao ban đầu (0,03 g và 4,80 mm) được ương với mật độ 300 con/m2. Kết quả thí nghiệm cho thấy, trứng ốc bươu đồng đạt tỷ lệ nở cao nhất (83,3%) ở nghiệm thức OL (tương đương với cường độ ánh sáng từ 1000 đến 9000 lux) và cao hơn đáng kể so với các nghiệm thức còn lại (p0,05). Tuy nhiên, khối lượng và chiều cao trung bình của ốc (1,56 g và 20 mm) ở nghiệm thức TL cao hơn so với điều kiện bình thường (1,21 g và 18,23 mm) hoặc che 1 lớp lưới (1,22 g và 18,57 mm).
#Ốc bươu đồng #ánh sáng #tỷ lệ nở #sinh trưởng
Kết quả nuôi vỗ ốc bươu đồng (Pila polita) dưới ảnh hưởng của hàm lượng calcium khác nhau trong thức ăn
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Tập 55 Số 5 - Trang 48-56 - 2019
Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá ảnh hưởng của các hàm lượng calcium đến quá trình thành thục và hiệu quả sinh sản của ốc bươu đồng (Pila polita). Ốc được cho ăn 5 hàm lượng calcium khác nhau với 3 lần lặp lại cho mỗi hàm lượng calcium lần lượt là: 1% (Ca1); 3% (Ca3); 5% (Ca5); 7% (Ca7) và 9% (Ca9). Ốc bố mẹ có chiều cao vỏ từ 35,5 - 42,4 mm được nuôi trong bể lót bạt (kích thước 1×1×1 m) với mật độ 60 con/bể và tỉ lệ đực:cái là 1:1. Kết quả sau 90 ngày nuôi vỗ cho thấy, hệ số thành thục (GSI) của ốc bươu đồng ở Ca5 là cao nhất (6,3% ở con đực; 13,0% ở con cái), kế đến Ca7 (5,7%; 10,2%) và khác biệt có ý nghĩa (p
#Hàm lượng can-xi #nuôi vỗ #ốc bươu đồng #Pila polita #sinh sản
Tổng số: 17   
  • 1
  • 2